Phương pháp phòng tránh bệnh xuất huyết não ở trẻ sơ sinh. – Bà mẹ trong thời gian mang thai cần phải chú ý giữ gìn sức khỏe, tránh xảy ra tình trạng sinh non. – Khi có dấu hiệu mắc bệnh cần phải chữa trị kịp thời. – Đề cao kỹ thuật trợ sản, thực hiện các thủ
Tiêu chuẩn xuất viện với bệnh nhân sốt xuất huyết bao gồm hết sốt 2 ngày và tỉnh táo. Ngoài ra, mạch và huyết áp của người bệnh bình thường, không còn khó thở hoặc suy hô hấp do tràn dịch màng bụng hay màng phổi. Tiêu chí cuối cùng là số lượng tiểu cầu lớn hơn 50.000/mm3.
Vay Tiền Online Chuyển Khoản Ngay. Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Nguyễn Thị Ân - Bác sĩ Nhi - Sơ sinh - Khoa Nhi - Sơ sinh - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Hạ Long. Bác sĩ là người rất tâm huyết với công tác chăm sóc sức khỏe cho trẻ em và có kinh nghiệm điều trị thành công nhiều ca bệnh ở trẻ sơ sinh. Xuất huyết não do thiếu vitamin K là một vấn đề nghiêm trọng có thể xảy ra ở một số trẻ sơ sinh trong vòng những ngày đầu sau sinh. Nếu khối máu chảy lớn, gây chèn ép nhu mô não, bệnh có thể nguy hiểm đến tính mạng của trẻ hay để lại di chứng nặng nề về sau. 1. Vitamin K là gì và tại sao lại quan trọng? Vitamin K là một chất mà cơ thể cần để hình thành cục máu đông và cầm máu. Điều đáng tiếc là cơ thể không thể tổng hợp được loại vitamin này mà chỉ có thể bổ sung vitamin K là từ thực phẩm ăn vào. Một số lượng ít vitamin K cũng được tạo ra bởi các vi khuẩn cộng sinh trong đường với trẻ sơ sinh, khi được sinh ra, cơ thể chỉ có một lượng rất nhỏ vitamin K được lưu trữ. Chính điều này có thể dẫn đến các vấn đề chảy máu nghiêm trọng nếu không được bổ sung vitamin K kịp thời. Trong đó, đặc biệt cần quan tâm chính là nguy cơ xuất huyết não do thiếu vitamin K. Vitamin K có vai trò quan trọng Xuất huyết não là hiện tượng máu thoát khỏi lòng mạch và chảy vào trong hộp sọ. Vì đây vốn dĩ là một không gian kín, lượng máu chảy ra sẽ có nguy cơ chèn ép nhu mô não, gây hoại tử, dẫn đến khiếm khuyết chức năng các cơ quan hay thậm chí là tử trẻ nhỏ, nhất là trẻ sơ sinh, nguyên nhân gây xuất huyết não do thiếu vitamin K là khá thường gặp. Do dự trữ lượng vitamin K vốn dĩ khá ít, trẻ sơ sinh không thể cầm máu vì máu không đủ Vitamin K để hình thành cục máu đông. Chảy máu tự phát có thể xảy ra trong não cũng như bất cứ nơi nào ở bên trong hoặc bên ngoài cơ thể. Nếu máu chảy vào trong nội tạng như não hay đường ruột thì rất khó nhận thấy so với máu chảy ra bên ngoài. Đến khi có dấu hiệu rõ ràng thì mức độ đã trở nên rất nặng nề, có thể dẫn đến tổn thương não vĩnh viễn không hồi phục và thậm chí tử vong. 3. Tại sao trẻ sơ sinh dễ bị thiếu vitamin K dẫn đến xuất huyết não? Tất cả các trẻ sơ sinh, bất kể giới tính hay chủng tộc, đều có nguy cơ thiếu vitamin K. Điều này là doKhi sinh ra, em bé có rất ít vitamin K được lưu trữ sẵn trong cơ thể vì chỉ một lượng nhỏ có thể truyền đến bào thai qua đường nhau thai từ vi khuẩn cộng sinh có khả năng sản xuất vitamin K vẫn chưa hiện diện trong ruột của trẻ sơ mẹ chứa lượng vitamin K thấp, vì vậy, trẻ sơ sinh bú sữa mẹ hoàn toàn sẽ không có đủ vitamin cơ thiếu vitamin K chỉ giảm đi phần nào cho đến khi trẻ bắt đầu ăn dặm và được nuôi ăn bằng đa dạng các loại thức ăn thông thường bắt đầu từ 6 tháng tuổi. Đồng thời, khi đến giai đoạn này, hệ thống vi khuẩn đường ruột cộng sinh cũng sẽ hoạt động hiệu quả, cung cấp thêm vitamin K. Sữa mẹ chứa lượng vitamin K thấp Ngoài ra, trẻ sẽ tăng nguy cơ xuất huyết não nói riêng và xuất huyết cơ quan nói chung do thiếu vitamin K khi có kèm theo một số yếu tố sau đây, bao gồmTrẻ sơ sinh không được tiêm vitamin K khi chào đời. Một số báo cáo cho thấy trẻ sơ sinh không được tiêm vitamin K sau khi sinh có nguy cơ xuất huyết muộn cao gấp 81 lần so với trẻ sơ sinh được tiêm vitamin được nuôi dưỡng hoàn toàn với sữa được chỉ định dùng một số loại thuốc, như isoniazid hoặc thuốc để điều trị co giật. Những loại thuốc này can thiệp vào cách cơ thể sử dụng vitamin bị bệnh gan nên không thể sử dụng được vitamin K dự trữ trong cơ bị tiêu chảy, bệnh celiac hoặc xơ nang thường gặp khó khăn trong việc hấp thụ vitamin K từ thực phẩm. Trẻ bị tiêu chảy khi khó hấp thụ vitamin K 4. Làm gì để phòng ngừa xuất huyết não do thiếu vitamin K ở trẻ sơ sinh? Một điều may mắn là có thể phòng ngừa xuất huyết não do thiếu vitamin K ở trẻ sơ sinh dễ dàng bằng một mũi tiêm vitamin K vào cơ bắp ở đùi. Chính mũi tiêm này ngay sau khi sinh sẽ bảo vệ em bé của bạn khỏi nguy cơ xuất huyết nói chung do thiếu vitamin nhiên, để đảm bảo cho trẻ được tiếp xúc da kề da ngay lập tức với mẹ, việc tiêm vitamin K có thể trì hoãn đến 6 giờ sau khi sinh. 5. Làm thế nào để nhận biết trẻ có nguy cơ xuất huyết do thiếu vitamin K? Khả năng bị xuất huyết do thiếu vitamin K, khả năng xuất huyết huyết não nói riêng, trên đối tượng trẻ sơ sinh là không có dấu hiệu cảnh báo trước. Có thể nghi ngờ bệnh lý này nếu trẻ có các yếu tố nguy cơ nêu nhiên, khi nhận thấy trẻ có các đặc điểm dưới đây, cần đưa trẻ đến khám bệnh để tầm soát khả năng chảy máu cũng như đảm bảo dự trữ vitamin K trong cơ thểXuất hiện các vết bầm tím, đặc biệt là xung quanh đầu và trên mặtChảy máu mũi, chảy máu dây rốnMàu da nhạt hơn trước. Đối với trẻ sơ sinh da sẫm màu, dấu hiệu nhợt nhạt sẽ quan sát được trên niêm mạc mắt, nướu phân có màu đen hoặc đỏ, dây dính máu hay có mùi tanh hôi hay trẻ nôn ra máuCáu gắt, co giật, bỏ bú, nôn ói hay lừ đừ, li bì có thể là dấu hiệu chảy máu trong não Chảy máu mũi ở trẻ sơ sinh Tóm lại, xuất huyết não do thiếu vitamin K là một vấn đề thường xảy ra ở một số trẻ sơ sinh trong vài ngày đầu đời. Vì lượng vitamin K dự trữ lúc sinh rất thấp, hệ thống đông cầm máu làm việc không hiệu quả, gây chảy máu nghiêm trọng đôi khi ảnh hưởng tính mạng. Tuy nhiên, một điều may mắn là nguy cơ này có thể dễ dàng ngăn ngừa chỉ bằng một mũi vitamin K tiêm bắp trên đùi trẻ sơ sinh ngay khi chào Bệnh viện Đa khoa quốc tế Vinmec hiện có gói dịch vụ “THAI SẢN TRỌN GÓI”, bao gồm cả chăm sóc trước sinh, chăm sóc trong khi sinh và chăm sóc sau sinh. Em bé sau khi sinh sẽ được tiêm vitamin K đầy đủ. Vitamin K được bảo quản và lưu trữ trong điều kiện tốt cùng hệ thống cơ sở vật chất hiện đại, tiên tiến, cha mẹ có thể hoàn toàn yên tâm tin tưởng. Khách hàng an tâm khi sử dụng dịch vụ thai sản trọn gói tại Vinmec Với đội ngũ các bác sĩ chuyên môn cao, dày dặn kinh nghiệm cùng hệ thống trang thiết bị hiện đại, đồng thời cùng hợp tác chuyên môn toàn diện với các bệnh viện uy tín nhất Việt Nam và các nước phát triển Singapore, Mỹ, Nhật Bản... Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là địa chỉ hoàn hảo chăm sóc sức khỏe mẹ và bé, giúp bạn có thể yên tâm bảo vệ con yêu. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. XEM THÊM Tại sao con người dễ bị bầm tím? Trẻ 1-3 tuổi cần bổ sung vitamin gì? Làm sao để biết cơ thể thiếu chất gì? Dịch vụ từ Vinmec
Ngày cập nhật 28/12/2020 Tác giả lượt xemMột số trẻ sơ sinh không may gặp phải tình trạng xuất huyết não rất nguy hiểm. Tình trạng này dễ dẫn tới tử vong. Với những trẻ được chạy chữa hiệu quả, tình trạng này cũng có thể để lại di chứng. Vì vậy, nhiều bậc cha mẹ và người thân của trẻ rất muốn tìm hiểu về di chứng xuất huyết não ở trẻ sơ sinh cũng như mức độ nghiêm trọng của vấn với trường hợp đẻ non, đẻ khó, đẻ thủ thuật nên đỡ đẻ cẩn thận, nên tiêm vitamin K phòng tránh chảy Thế nào là di chứng xuất huyết não?Xuất huyết não ở trẻ sơ sinh là tình trạng lớp màng xương sọ của trẻ bị xuất huyết. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tử vong, thường xảy ra đối với trường hợp đẻ non, thường gặp ở sản phụ cao tuổi sinh non. Tỷ lệ phát bệnh ở bé trai nhiều hơn bé xuất huyết não ở trẻ sơ sinh thường xảy ra sau khi sinh 3 ngày, thời gian mắc bệnh nhanh nhất là sau khi sinh 2 tiếng. Theo một nghiên cứu về tình trạng xuất huyết não ở trẻ sơ sinh đủ tháng cho kết quả từ 2 – 5/ trẻ sinh bị xuất huyết não không có triệu chứng. Điều này cho thấy mức độ nguy hiểm của tình trạng huyết não ở trẻ sơ sinh là tình trạng lớp màng xương sọ của trẻ bị xuất huyết2. Biểu hiện của di chứng xuất huyết nãoNếu trẻ sơ sinh mắc bệnh xuất huyết não, tỷ lệ tử vong là rất cao từ 25-40%. Những trẻ mắc bệnh thường bị tổn thương thần kinh, để lại di đó, các trường hợp may mắn không tử vong thường để lại các di chứng nghiêm trọng như– Động kinh– Liệt vận động– Chậm phát triển tinh thần– Ứ nước não thất, khiến trẻ bị tàn tật suốt Dấu hiệu nào cảnh báo bệnh xuất huyết não ở trẻ sơ sinh?– Hệ thống thần kinh trung ương hưng phấn trẻ cảm thấy buốn bực, phát ra tiếng rên, có những trẻ còn phát ra tiếng hét, có những trẻ 2 mắt nhìn trừng trừng về một hướng, nét mặt hiện lên vẻ sợ hãi.– Những trẻ sơ sinh mắc bệnh này thở tương đối nhanh, không theo quy tắc, thậm chí nhịp thở không đều.– Mặt và thể trạng xanh xao.– Hay trớ khi mắc bệnh từ 3 đến 5 ngày, bệnh thường có hiện tượng chuyển biến tốt, nếu không sẽ chuyển sang trạng thái ức chế. Có một số trường hợp chảy máu tương đối nghiêm trọng, ngay thời kỳ đầu đã xuất hiện trạng thái ức chế, có biểu hiện thèm ngủ, không ăn, sắc mặt nhợt nhạt, thậm chí hôn mê dẫn đến tử trường hợp may mắn không tử vong thường để lại các di chứng nghiêm trọng cho trẻ. 4. Cách đề phòng xuất huyết não ở trẻ sơ sinh– Bà mẹ trong thời gian mang thai phải chú ý giữ gìn sức khỏe, kiểm tra cẩn thận trước khi sinh, kịp thời xử lý các bệnh mắc phải khi mang thai, kiểm soát tốt các bệnh vốn đang có trong người từ trước. Điều này giúp tránh để xảy ra tình trạng sinh non, sinh khó.– Đối với trường hợp đẻ non, đẻ khó, đẻ thủ thuật nên đỡ đẻ cẩn thận, nên tiêm vitamin K phòng tránh chảy máu. Trong quá trình sinh đẻ không được lạm dụng thuốc kích đẻ và thuốc khống chế hệ thần kinh trung ương. Nắm vững các thủ thuật trợ sản cũng là một trong những cách để giảm thiểu tỉ lệ trẻ xuất huyết sọ não. Nếu nhận thấy biểu hiện nghi vấn trẻ mắc bệnh phải đưa đi khám ngay để chữa trị kịp thời.– Đối với trẻ đẻ non, đẻ khó hoặc khi đẻ ra trẻ bị ngạt thở, sau khi sinh nên tiêm vitamin K và vitamin C…Bài viết trên của chúng tôi đã cung cấp các thông tin chi tiết về di chứng xuất huyết não xảy ra ở trẻ sơ sinh. Nếu có bất kỳ thắc mắc gì, hãy đến các bệnh viện uy tín để được bác sĩ chuyên môn tư vấn và có phương pháp điều trị sớm.
Nhiễm khuẩn sơ sinh là tình trạng bị các tác nhân vi sinh vật xâm lần, thường là do vi khuẩn xảy ra trong giai đoạn sơ sinh. Dấu hiệu nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh rất đa dạng và không đặc hiệu bao gồm giảm vận động, ăn bú kém, ngừng thở, tim chậm, thay đổi thân nhiệt, suy hô hấp, nôn, tiêu chảy, bụng chướng, rung cơ, co giật và vàng da. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng và kết quả nuôi cấy. Việc điều trị ban đầu với ampicillin kết hợp với gentamicin hoặc cefotaxime, thu hẹp phổ kháng sinh ngay khi có kết quả vi khuẩn sơ sinh xảy ra trong khoảng từ 0,5 đến 8,0/1000 ca sinh. Tỷ lệ cao nhất xảy ra trong Trẻ sinh nhẹ cân LBWThiểu sốNam giới Khởi phát nhiễm trùng huyết ở trẻ sơ sinh có thể Sớm ≤ 3 ngày sau sinhMuộn sau 3 ngày Nhiễm khuẩn sơ sinh sớm thường do hậu quả nhiễm trùng từ trong tử cung. Hầu hết trẻ sơ sinh có các triệu chứng trong vòng 6 giờ sau sinh. Các trường hợp khác có xu hướng do trực khuẩn đường ruột gram âm gây ra ví dụ, các chủng Klebsiella Nhiễm trùng do Klebsiella, Enterobacter, và Serratia Vi khuẩn gram âm Klebsiella, Enterobacter và Serratia có liên quan mật thiết với hệ vi khuẩn đường ruột bình thường mà hiếm khi gây bệnh ở những người bình thường. Chẩn... đọc thêm và một số sinh vật gram dương Listeria monocytogenes Listeriosis Listeriosis là bệnh nhiễm trùng máu, viêm màng não, viêm não, viêm da, hội chứng tuyến mắt, nhiễm trùng tử cung và trẻ sơ sinh, hoặc hiếm khi gây viêm nội tâm mạc do loài Listeria. Các... đọc thêm , enterococci Nhiễm cầu khuẩn đường ruột Cầu khuẩn đường ruột là vi khuẩn gram dương, kị khí tuỳ tiện. Enterococcus faecalis và E. faecium gây ra một loạt các bệnh nhiễm trùng, bao gồm viêm nội tâm mạc, viêm đường tiết... đọc thêm [ví dụ, Enterococcus faecalis, E. faecium], liên cầu khuẩn nhóm D Nhiễm liên cầu Liên cầu là các vi khuẩn Gram dương hiếu khí gây ra nhiều chứng rối loạn, bao gồm viêm họng, viêm phổi, nhiễm trùng vết thương và da, nhiễm trùng huyết, và viêm nội tâm mạc. Các triệu chứng... đọc thêm [ví dụ, Streptococcus bovis], liên cầu tan huyết alpha Nhiễm liên cầu Liên cầu là các vi khuẩn Gram dương hiếu khí gây ra nhiều chứng rối loạn, bao gồm viêm họng, viêm phổi, nhiễm trùng vết thương và da, nhiễm trùng huyết, và viêm nội tâm mạc. Các triệu chứng... đọc thêm và tụ cầu Nhiễm trùng tụ cầu tụ cầu khuẩn là các vi khuẩn Gram dương, hiếu khí. Staphylococcus aureus là tác nhân gây bệnh nhiều nhất; nó thường gây ra nhiễm trùng da và đôi khi viêm phổi, viêm nội tâm mạc, và viêm... đọc thêm . Ngoài ra, S. pneumoniae Nhiễm Phế Cầu Khuẩn Streptococcus pneumoniae phế cầu là vi khuẩn gram dương, tan máu alpha, hiếu khí, xếp đôi. Ở Mỹ, nhiễm trùng phế cầu là nguyên nhân chính gây viêm tai giữa, viêm phổi, nhiễm trùng huyết... đọc thêm , H. influenzae nhóm b Nhiễm khuẩn Haemophilus Loài vi khuẩn gram âm Haemophilus gây nhiều nhiễm trùng nhẹ và nghiêm trọng, bao gồm vãng khuẩn huyết, viêm màng não, viêm phổi, viêm xoang, viêm tai giữa, viêm tế bào và viêm thanh quản... đọc thêm , và, ít phổ biến hơn, Neisseria meningitidis Bệnh Meningococcal Meningococci Neisseria meningitidis là những song cầu khuẩn gram âm gây viêm màng não mủ và nhiễm trùng huyết. Các triệu chứng, thường là nặng, bao gồm đau đầu, buồn nôn, nôn, sợ ánh... đọc thêm gần như không gặp. Bệnh lậu không triệu chứng đôi khi xảy ra trong thai kỳ, do đó N. gonorrhoeae Bệnh lậu Bệnh lậu do vi khuẩn Neisseria gonorrhoeae gây ra. Nó thường nhiễm vào biểu mô của niệu đạo, cổ tử cung, trực tràng, hầu họng, hoặc kết mạc, gây kích ứng hoặc đau và xuất huyết rải rác... đọc thêm có thể hiếm khi là một mầm bệnh. Mặc dù xét nghiệm sàng lọc và dự phòng kháng sinh trong đẻ đối với nhóm liên cầu nhóm B đã làm giảm đáng kể tỷ lệ nhiễm trùng sớm do GBS, tuy nhiên, tỷ lệ nhiễm trùng muộn do GBS vẫn không thay đổi, điều này phù hợp với giả thuyết nhiễm khuẩn sơ sinh muộn thường do môi trường. Một số bệnh nhiễm trùng do virus ví dụ, herpes simplex lan tỏa Nhiễm Herpes Simplex HSV ở trẻ sơ sinh Nhiễm virus herpes simplex sơ sinh thường lây truyền trong cuộc đẻ. Dấu hiệu điển hình với tổn thương mụn phỏng vỡ mủ có thể khu trú hoặc tan tỏa các cơ quan. Chẩn đoán dựa vào nuôi cấy vi rút... đọc thêm , enterovirus Tổng quan về nhiễm Enterovirus Nhóm Enterovirus, cùng với nhóm rhinovirus xem Cảm lạnh thông thường và parechovirus ở người, là một chi của picornavirus pico, hoặc vi rút RNA nhỏ. Tất cả các enterovirus đều có... đọc thêm , adenovirus Nhiễm adenovirus Nhiễm một trong số nhiều loại adenovirus có thể không có triệu chứng hoặc gây ra các hội chứng cụ thể, bao gồm nhiễm trùng đường hô hấp nhẹ, viêm kết giác mạc, viêm dạ dày và ruột, viêm bàng... đọc thêm , vi rút hợp bào hô hấp Virus hợp bào hô hấp RSV và nhiễm Human Metapneumovirus Virus hợp bào hô hấp và nhiễm human metapneumovirus gây nhiễm trùng đường hô hấp dưới theo mùa, đặc biệt ở trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ. Bệnh có thể không có triệu chứng, nhẹ hoặc nặng, bao gồm viêm... đọc thêm có thể biểu hiện như nhiễm trùng huyết khởi phát sớm hoặc khởi phát muộn. Một số yếu tố chu sinh và sinh sản của bà mẹ làm tăng nguy cơ, đặc biệt là nhiễm trùng sơ sinh sớm, như sau Mang GBS Liên cầu nhóm B Lây lan qua đường máu và qua nhau thai xảy ra khi lây truyền một số tác nhân gây bệnh do vi rút ví dụ rubella Bệnh Rubella bẩm sinh Bệnh Rubella bẩm sinh là một bệnh nhiễm virut từ người mẹ trong thời kỳ mang thai. Dấu hiệu bao gồm các dị tật bẩm sinh, có thể gây tử vong cho thai. Chẩn đoán là do huyết thanh học và cấy virus... đọc thêm , cytomegalovirus Nhiễm Cytomegalovirus CMV Bẩm sinh và Chu sinh Nhiễm Cytomegalovirus có thể xảy ra trước khi sinh hoặc chu sinh. Đây là một trong những bệnh nhiễm virus bẩm sinh thường gặp nhất. Các dấu hiệu khi sinh, nếu có, là chậm tăng trưởng trong tử... đọc thêm , động vật nguyên sinh ví dụ, Toxoplasma gondii Toxoplasmosis Bệnh Toxoplasma do nhiễm ký sinh trùng Toxoplasma gondii. Triệu chứng từ không biểu hiện đến hạch to lành tính bệnh giả tăng bạch cầu đơn nhân tới đe dọa đến mạng sống bệnh lý thần... đọc thêm và treponemal ví dụ Treponema pallidum Bệnh giang mai bẩm sinh Bệnh giang mai bẩm sinh là một nhiễm trùng đa cơ quan gây ra bởi Treponema pallidum và truyền cho thai qua nhau thai. Dấu hiệu sớm là các tổn thương da điển hình, hạch to, gan lách to... đọc thêm Một số vi khuẩn gây bệnh ví dụ, L. monocytogenes Listeriosis Listeriosis là bệnh nhiễm trùng máu, viêm màng não, viêm não, viêm da, hội chứng tuyến mắt, nhiễm trùng tử cung và trẻ sơ sinh, hoặc hiếm khi gây viêm nội tâm mạc do loài Listeria. Các... đọc thêm , Mycobacterium tuberculosis Bệnh lao TB Bệnh lao TB là bệnh nhiễm trùng do mycobacterial tiến triển mạn tính, thường có thời gian tiềm tàng sau khi có nhiễm bệnh ban đầu. Lao thường ảnh hưởng nhiều nhất đến phổi. Triệu chứng bao... đọc thêm một số trường hợp có thể lây nhiễm qua bánh rau, nhưng phần lớn là do nhiễm trùng ngược dòng từ cổ tử cung lên và do khi trẻ đi qua đường sinh dục có mang vi khuẩn của mẹ trong cuộc dù mật độ vi khuẩn mang ở bà mẹ có liên quan trực tiếp đến nguy cơ bệnh xâm lấn ở trẻ sơ sinh, nhưng nhiều bà mẹ có mật độ mang vi khuẩn thấp lại sinh ra trẻ sơ sinh có mật độ mang vi khuẩ cao, vì vậy chúng có nguy cơ cao nhiễm bệnh. Nước ối có phân su hoặc nhiều chất gây có thể tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của Streptococcus nhóm B và E. coli. Hơn nữa, một vài sinh vật trong khoang âm đạo của mẹ có thể tăng nhanh sau vỡ ỗi sớm PROM, có thể góp phần lây truyền ngược dòng. Các sinh vật nhiễm vào máu thông qua thai nhi hít hoặc nuốt nước ối bị ô nhiễm, dẫn đến nhiễm khuẩn trùng ngược dòng thể giúp giải thích nhiễm trùng cao ở trẻ sơ sinh có vỡ ối sớm, viêm phần phụ viêm ối có liên quan đến nhiễm trùng huyết sơ sinh hơn là viêm ở trung tâm bánh rau, trẻ sinh đôi nằm gần đường sinh dục của mẹ ở có nguy cơ nhiễm trùng cao hơn, nhiễm vi khuẩn của nhiễm trùng sơ sinh sớm và phản ánh hệvi khuẩn của khoang âm đạo của người mẹ. Yếu tố nguy cơ quan trọng nhất trong nhiễm trùng huyết sơ sinh khởi phát muộn làCác yếu tố nguy cơ khác bao gồm Sử dụng catheter nội mạch kéo dàiBệnh liên quan có thể,chỉ là một dấu hiệu cho việc sử dụng thủ tục xâm lấnSử dụng kháng sinh không phù hợp tăng vi khuẩn kháng thuốcNằm viện kéo dàiThiết bị bị ô nhiễm hoặc dung dịch tiêm truyền hoặc cho vi khuẩn Gram dương ví dụ, coagulase-negative staphylococci và Staphylococcus aureus có thể từ môi trường hoặc da của bệnh nhân. Các vi khuẩn Gram âm thường xuất phát từ hệ vi khuẩn nội sinh của bệnh nhân, có thể đã bị thay đổi do sử dụng kháng sinh trước đó hoặc do các vi khuẩn kháng thuốc chuyển từ bàn tay của nhân viên chăm sóc phương tiện lây lan chính hoặc thiết bị bị ô nhiễm. Do đó, các nguy cơ làm tăng khả năng nhiễm với các vi khuẩn này ví dụ, đông người, nhân viên y tá không đầy đủ, không rửa tay, rửa tay không đúng dẫn đến tỷ lệ nhiễm trùng bệnh viện cao hơn. Các yếu tố nguy cơ nhiễm chủng Candida bao gồm sử dụng catheter đường tĩnh mạch trung tâm kéo dài > 10 ngày, dung dịch dưỡng tĩnh mạch, sử dụng kháng sinh phổ rộng đặc biệt là cephalosporin thế hệ thứ 3 và bệnh lý đường trùng ban đầu có thể xảy ra ở đường tiểu, viêm xoang, tai giữa, viêm phổi hoặc đường tiêu hoá, và sau đó có thể lan truyền màng não, thận, xương, khớp, phúc mạc và da. Các triệu chứng và dấu hiệu của nhiễm trùng huyết ở trẻ sơ sinh Dấu hiệu ban đầu của nhiễm khuẩn huyết sơ sinh thường không đặc hiệu, kín đáo và không phân biệt giữa các tác nhân kể cả virut. Những dấu hiệu sớm phổ biến nhất bao gồm Giảm hoạt động tự phát Bú ít Chán ănNgưng thở Nhịp tim chậmSự mất ổn định nhiệt độ hạ thân nhiệt hoặc tăng thân nhiệtSốt xuất hiện chỉ trong 10% đến 15% số trẻ sinh nhưng, khi duy trì ví dụ > 1 giờ, thường là dấu hiệu chỉ điểm nhiễm trùng. Các triệu chứng và dấu hiệu khác bao gồm suy hô hấp, các triệu chứng thần kinh ví dụ, cơn co giật, rung giật, vàng da đặc biệt xuất hiện trong vòng 24 giờ đầu đời mà không có bất đồng Rh hoặc ABO với tăng nồng độ bilirubin trực tiếp, nôn, tiêu chảy, và chướng bụng. Dấu hiệu cụ thể của cơ quan bị bệnh có thể xác định vị trí ban đầu hoặc ổ di bệnh. Hầu hết trẻ sơ sinh nhiễm trùng sớm do Streptococcus nhóm B hoặc L. monocytogenes có tình trạng hô hấp đôi khi khó phân biệt được với hội chứng suy hô hấp cấp RDS.Viêm tấy đỏ, chảy dịch, chảy máu quanh rốn mà không có các bệnh lý liên quan chảy máu khác có thể là dấu hiệu gợi ý nhiễm trùng rốn nhiễm trùng gây hủy hoại của mạch rốn.Hôn mê, co giật, uốn ván, hoặc thóp phồng lên gợi ý viêm màng não, viêm não, hoặc áp xe vận động tự phát của một chi cùng với sưng, nóng, đỏ, hoặc đau trên khớp cho thấy cốt tủy viêm hay viêm khớp nhiễm chướng có thể là dấu hiệu của viêm phúc mạc hoặc viêm ruột hoại tử đặc biệt khi đi kèm với phân máu hay bạch cầu nhiều trong.Các vết loét ngoài da, loét miệng và gan lách to đặc biệt với đông máu nội quản rải rác [DIC] có thể cho thấy nguy cơ nhiễm herpes simplex toàn trùng sớm do liên cầu B GBS có thể có biểu hiện như một tình trạng viêm phổi cấp tính. Thông thường, các biến chứng sản khoa đặc biệt là trẻ non tháng, ối với kéo dài, hoặc viêm ối màng ối. Trong > 50% trẻ sơ sinh, nhiễm trùng Streptococcus nhóm B có biểu hiện trong vòng 6 giờ sinh; 45% có điểm số Apgar 3 ngày đến 12 tuần, viêm màng não thường xuất hiện. Nhiễm khuẩn với GBS muộn thường không liên quan đến các yếu tố nguy cơ chu sinh hoặc chứng tỏ mẹ có mang vi khuẩn mà đó là do tình trạng bội sau khi đẻ. Chỉ số nghi ngờ caoNuôi cấy máu, dịch não tủy CSF và đôi khi là nước tiểuChẩn đoán sớm bệnh nhiễm khuẩn huyết sơ sinh là rất quan trọng và đòi hỏi cảnh giác với các yếu tố nguy cơ đặc biệt ở trẻ sơ sinh cân nặng thấp và tiếp tục cần theo dõi nếu có bất thường trong vài tuần đầu đời. Tổng số bạch cầu và số lượng tuyệt đối của các dòng bạch cầu ở trẻ sơ sinh là yếu tố dự báo kém của nhiễm trùng huyết sớm khởi phát. Tuy nhiên, tỷ lệ tăng trưởng chưa trưởng thành tổng số bạch cầu đa hạt nhân > 0,16 là có giá trị chẩn đoán, và các giá trị dưới ngưỡng này có một giá trị tiên đoán âm tính cao. Tuy nhiên, tính đặc hiệu là thấp; đến 50% trẻ sơ sinh đủ tháng có tăng tỷ lệ. Các giá trị thu được sau 6 giờ tuổi có nhiều khả năng là bất thường và có giá trị lâm sàng so với những kết quả thu được ngay sau khi sinh. Số lượng tiểu cầu có thể giảm vài giờ đến ngày khởi trước khi khởi phát nhiễm trùng trên lâm sàng nhưng thường vẫn tăng sau khi trẻ hồi phục một ngày. Sự giảm này đôi khi đi kèm với những thay đổi khác của DIC ví dụ như tăng sản phẩm giáng hóa fibrin, giảm fibrinogen, kéo dài tỷ lệ chuẩn hóa quốc tế [INR]. Với những thay đổi này, số lượng tiểu cầu thường không hữu ích trong việc đánh giá một trẻ sơ sinh nhiễm khuẩn có một lượng lớn vi khuẩn lưu thông trong máu nên đôi khi có thể được nhìn thấy vi khuẩn trong các bạch cầu hạt đa nhân bằng cách sử dụng chất nhuộm Gram, màu xanh methylene, hoặc chất tẩy crôm acridine với hệ kể kết quả của công thức máu hoặc dịch não tủy, tất cả trẻ sơ sinh có nghi ngờ nhiễm khuẩn huyết bệnh nhân không ổn định, sốt hoặc hạ thân nhiệt, kháng sinh nên được chỉ định ngay sau khi nuôi cấy ví dụ như máu và hay dịch não tủy nếu có thể. Các mạch rốn có thể bị nhiễm khuẩn từ các vi khuẩn ở trên gốc rốn, đặc biệt là sau một vài giờ, do đó việc nuôi cấy máu từ catheter tĩnh mạch rốn có thể không đáng tin cậy. Do đó, cần lấy máu để nuôi cấy bằng mạch ngoại biên, tốt hơn là ở 2 vị trí. Mặc dù, việc chuẩn bị da tối ưu để thực hiện trước khi nuôi cấy máu ở trẻ sơ sinh không được xác định, bác sĩ lâm sàng có thể dùng dung dịch chứa iốt và phải để cho vùng da khô hoàn toàn sau sát khuẩn. Ngoài ra, máu được lấy ngay sau khi đặt catheter động mạch rốn cũng có thể được sử dụng cho nuôi cấy nếu cần. Máu nên được nuôi cấy cho cả vi khuẩn hiếu khí và kị khí. Tuy nhiên, lượng máu tối thiểu cho mỗi chai nuôi cấy máu là 1,0 mL; nếu 90%mẫu nuôi cấy máu vi khuẩn dương tính sẽ mọc trong vòng 48 giờ ủ mẫu Dữ liệu về nuôi cấy mao mạch không đủ để đề khuyến cáo dùng phương pháp Candida có thể mọc trên đĩa nuôi cấy máu và trên các đĩa thạch máu, nhưng nếu nghi ngờ có nấm khác thì nên sử dụng phương pháp nuôi cấy nấm. Đối với các loài nấm khác Candida, nuôi cấy máu nấm có thể cần từ 4 đến 5 ngày ủ bệnh trước khi trở nên dương tính và có thể âm tính ngay cả khi bệnh lan truyền rõ rệt. Bằng chứng về sự mang các tác nhân này trong miệng hoặc phân hoặc trên da có thể hữu ích trước khi có kết quả nuôi cấy. Trẻ sơ sinh bị nấm máu cần được thực hiện LP để xác định viêm màng não do nấm. Soi đáy mắt với đồng tử được giãn tốt để xác định có viêm thị giác do nấm Siêu âm thận cũng cần được làm để loại trừ nguy cơ nấm tại thận với hình ảnh u nấm fugal ball. Siêu âm thận cũng cần được làm để loại trừ nguy cơ nấm tại thận với hình ảnh u nấm fugal ball Xét nghiệm nước tiểu là cần thiết chỉ để đánh giá nhiễm khuẩn huyết muộn. Nên lấy nước tiểu qua đặt ống thông bàng quang hoặc chọc hút trên xương mu, không lấy mẫu qua túi nước tiểu. Mặc dù chỉ có kết quả cấy là tiêu chuẩn vàng chẩn đoán, một số chỉ số như ≥ 5 bạch cầu/trường năng lượng cao hoặc thấy bất kỳ vi sinh vật nào trong một mẫu soi là bằng chứng của nhiễm trùng đường tiểu UTI. Không có bạch cầu trong nước tiểu không loại trừ nhiễm trùng đường tiểu. Nhiều xét nghiệm thường có bất thường trong nhiễm khuẩn huyết và đã được đánh giá là dấu hiệu sớm. Tuy nhiên, hầu hết độ nhạy của các xét nghiệm có xu hướng thấp cho đến khi nhiễm trùng rõ ràng sau đó trong bệnh tật, và độ đặc hiệu cũng không thật sự cao. Các chất chỉ điểm sinh học không được coi là hữu ích để xác định thời điểm bắt đầu dùng kháng sinh cho nhiễm trùng huyết ở trẻ sơ sinh vì giá trị tiên lượng dương tính kém, nhưng chúng có thể có vai trò bổ trợ trong việc xác định thời điểm có thể chấp nhận ngừng kháng sinh nếu kết quả nuôi cấy vẫn âm tính trong trường hợp nghi ngờ nhiễm trùng huyết khởi phát chất phản ứng giai đoạn cấp tính là các protein được sản xuất bởi gan dưới ảnh hưởng của IL-1 khi có hiện tượng viêm. Loại có được nghiên cứu nhiều nhất trong số này là protein phản ứng C định lượng CRP. Nồng độ ≥ 1 mg/dL 9,52 nmol/L đo bằng nephelometryh - kỹ thuật miễn dịch học thường được coi là bất thường. Nồng độ cao xảy ra trong vòng 6 đến 8 giờ phát triển nhiễm trùng huyết và đạt đỉnh sau 1 ngày. Độ nhạy của định lượng protein phản ứng C cao hơn nếu đo sau 6 đến 8 giờ sau sinh. Hai giá trị bình thường thu được ở 8 giờ đến 24 giờ sau khi sinh và sau 24 giờ sau có một giá trị tiên đoán âm tính cao đến 99,7%. 1. Pontrelli G, De Crescenzo F, Buzzetti R, et al Accuracy of serum procalcitonin for the diagnosis of sepsis in neonates and children with systemic inflammatory syndrome A meta-analysis. BMC Infect Dis 171302, 2017. doi Stocker M, van Herk W, El Helou S, et al C-reactive protein, procalcitonin, and white blood count to rule out neonatal early-onset sepsis within 36 hours A secondary analysis of the neonatal procalcitonin intervention study. Clin Infect Dis 732e383–e390, 2021. doi Tỉ lệ tử vong cao gấp 2 đến 4 lần ở trẻ nhẹ cân so với trẻ đủ tháng. Tỷ lệ tử vong do nhiễm khuẩn sơ sinh sớm là từ 3% đến 40% tỷ lệ nhiễm khuẩn sơ sinh sớm do GBS là 2% đến 10% và nhiễm khuẩn sơ sinh muộn là 2% đến 20% nhiễm khuẩn sơ sinh muộn do GBS vào khoảng 2%. Tỷ lệ tử vong do nhiễm khuẩn sơ sinh sớm phụ thuộc vào nguyên nhân gây nhiễm trùng; nhiễm trùng gây ra bởi vi khuẩn gram âm hoặc chủng Candida có tỷ lệ tử vong lên đến 32 đến 36%. Ngoài ra, trẻ sơ sinh cân nặng cực thấp có nhiễm khuẩn huyết hoặc nhiễm nấm máu thường có nguy cơ rất cao tổn thương về thần kinh. Liệu pháp kháng sinhLiệu pháp hỗ trợCác biện pháp hỗ trợ chung, bao gồm hỗ trợ hô hấp và kiểm soát huyết động, được kết hợp với điều trị kháng sinh. Trong nhiễm trùng huyết khởi phát muộn, trẻ sơ sinh trước đó được nhận vào cộng đồng bị nhiễm trùng huyết khởi phát muộn cũng nên được điều trị bằng ampicillin cộng với gentamicin hoặc ampicillin cộng với cefotaxime. Nếu nghi ngờ viêm màng não do vi khuẩn gram âm, có thể dùng ampicillin, cefotaxime và aminoglycoside. Trong nhiễm trùng sơ sinh muộn do nhiễm khuẩn bệnh viện, điều trị ban đầu nên bao gồm vancomycin có hoạt tính kháng S. aureus kháng methicilin; xem bảng Liều vancomycin cho trẻ sơ sinh cộng với một aminoglycosid. Nếu nghi ngờ nhiễm P. aeruginosa chỉ định ceftaidime, cefepime, hoặc piperacillin/tazobactam có thể được sử dụng bổ sung hoặc thay cho aminoglycoside tùy thuộc vào sự nhạy cảm của vi khuẩn theo từng đơn vị. Đối với trẻ sơ sinh đã điều trị trước đó với một đợt aminoglycoside từ 7 đến 14 ngày cần được điều trị, cần xem xét một loại aminoglycosid khác hoặc cephalosporin thế hệ nghi ngờ tụ cầu không đông huyết tương coagulase-negative staphylococci ở các bệnh nhân có yếu tố nguy cơ như vị trí đặc catherer bị sưng kéo dài > 72 giờ hoặc được phân lập từ máu hoặc chất dịch vô trùng bình thường khác và được coi là mầm bệnh, liệu pháp ban đầu cho nhiễm trùng huyết khởi phát muộn nên bao gồm vancomycin. Tuy nhiên, nếu vi khuẩn nhạy cảm với nafcillin, cefazolin hoặc nafcillin, có thể dùng thay thế cho vancomycin. Việc loại nguồn mang bệnh như vị trí catheter bị sưng nề là cần thiết để điều trị nhiễm trùng. Ngoài ra, coagulase-negative staphylococci có thể được bảo vệ bằng một màng sinh học lớp phủ bảo vệ ngăn cách vi khuẩn với catheter.Bởi vì Candida có thể mất từ 2 đến 3 ngày để phát triển trong nuôi cấy máu, việc bắt đầu điều trị amphotericin B deoxycholate theo kinh nghiệm và loại bỏ catheter nhiễm bệnh trước khi csoo kết quả cấy mới có thể cứu sống bệnh nhân. Truyền máu đã được sử dụng cho trẻ sơ sinh nặng đặc biệt là hạ huyết áp và toan chuyển hóa. Với hiệu quả làm tăng lượng globulin tuần hoàn, làm giảm lượng endotoxin tuần hoàn, tăng mức hemoglobin với mức 2,3-diphosphoglycerate cao hơn và cải thiện tưới máu. Tuy nhiên, chưa có thử nghiệm lâm sàng có đối chứng nào được tiến tươi đông lạnhcó thể giúp cải thiện sự thiếu hụt opsonin với độc tố ruột của Ecolo ở trẻ sơ sinh cân nặng thấp, tuy nhiên, chưa có nghiên cứu đối chứng nào được công bố và các nguy cơ liên quan đến truyền máu phải được xem yếu tố kích thích quần thể tái tổ hợp G-CSF-yếu tố kích thích hoạt hóa bạch cầu hạt [GM-CSF]- yếu tố hoạt hóa thực bào đã làm tăng số lượng và chức năng bạch cầu trung tính ở trẻ sơ sinh có giả định làm cải thiện tình trạng nhiễm trùng nhưng thức tế chưa có hiệu quả ở mọi trẻ sơ sinh có giảm bạch cầu nặng; cần phải được nghiên cứu thêm. Tiền sử viêm ối- màng ốiTuổi thai và thời gian vỡ ốiNếu không có viêm ối - màng ối hoặc không có chỉ định điều trị dự phòng với liên cầu B, chỉ định xét nghiệm hoặc điều trị là không cần mẹ có chỉ định điều trị dự phòng Streptococcus nhóm B và đã điều trị thích hợp với penicillin, ampicillin, hoặc cefazolin tiêm tĩnh mạch trong 4 giờ trước sinh, trẻ cần được theo dõi trong bệnh viện trong 48 giờ; các xét nghiệm và điều trị chỉ được thực hiện khi các triệu chứng phát triển. Với trẻ ≥ 37 tuần tuổi thai, có người chăm sóc và theo dõi phù hợp thì có thể xuất viện sau 24 bà mẹ không được điều trị dự phòng nhóm B liên cầu một cách thích hợp, trẻ được theo dõi trong bệnh viện trong 48 giờ mặc dù có thể chưa cần điều trị bằng kháng sinh. Nếu màng ối vỡ ≥ 18 giờ trước khi sinh hoặc tuổi thai < 37 tuần, trẻ nên được chỉ định nuôi cấy máu, công thức máu bạch cầu và CRP khi sinh và/hoặc từ 6 đến 12 giờ. Các triệu chứng lâm sàng và kết quả của phòng thí nghiệm giúp hướng dẫn điều trị. Việc cung cấp globulin miễn dịch để tăng cường phản ứng miễn dịch của trẻ sơ sinh đã không được chứng minh là giúp ngăn ngừa hoặc điều trị nhiễm khuẩn huyết. Tất cả phụ nữ mang thai nên được sàng lọc để tìm vi khuẩn GBS vào cuối thai kỳ bằng cách sử dụng cả nuôi cấy dịch âm đạo và trực tràng. Phụ nữ có kết quả sàng lọc GBS dương tính nên được điều trị dự phòng kháng sinh trong chuyển dạ trừ khi có chỉ định mổ đẻ trước khi chuyển dạ và trước khi vỡ ối. Phụ nữ có kết quả sàng lọc GBS âm tính nên được chỉ định dùng kháng sinh trong chuyển dạ nếu tiền sử họ đã sinh một đứa trẻ sơ sinh bị bệnh phụ nữ không rõ tình trạng nhiễm GBS ví dụ, vì không được kiểm tra hoặc kết quả không có nên dùng kháng sinh trong chuyển dạ nếu ≥ 1 trong số các yếu tố sau < 37 tuần tuổi thai Vỡ ối kéo dài ≥ 18 giờNhiệt độ ≥ 38°CCó thể xảy ra nếu có sàng lọc GBS dương tính trong lần mang thai trước đóKháng sinh thường được sử dụng bao gồm penicillin, ampicillin hoặc cefazolin và nên cho dùng tĩnh mạch trong thời gian ≥ 4 giờ trước khi sinh. Sự lựa chọn kháng sinh nên tính đến các mô hình kháng kháng sinh của GBS ở từng nơi. 1. Brady MT, Polin RA Prevention and management of infants with suspected or proven neonatal sepsis. Pediatrics 132166-8, 2013. doi Puopolo KM, Lynfield R, Cummings JJ, et al Management of infants at risk for group B streptococcal disease. Pediatrics 1442e20191881, 2019. doi Nhiễm trùng sơ sinh có thể nhiễm khuẩn khởi phát sớm ≤ 3 ngày sinh hoặc muộn sau 3 ngày.Nhiễm trùng khởi phát sớm thường là hậu quả của nhiễm trùng mẹ con và các triệu chứng xuất hiện trong vòng 6 giờ sau khi nhiễm trùng khởi phát muộn thường có do môi trường và có nguy cơ cao ở trẻ non tháng, đặc biệt là những trẻ nhập viện kéo dài, sử dụng đường truyền tĩnh mạch. Các triệu chứng sớm thường không đặc hiệu và khó nhận biết. Sốt chỉ có 10% đến 15% số trường hợp máu, cấy dịch não tủy, với nhiễm khuẩn sơ sinh muộn cần cấy thêm nước trị sớm nhiễm khuẩn huyết ban đầu bằng ampicillin kết hợp với gentamicin và/hoặc cefotaxime nếu nghi ngờ bị viêm màng não gram âm, thu hẹp lại thành các thuốc đặc hiệu với vi khuẩn khi có kết quả trị dự phòng liên cầu nhóm B GBS trong thời kỳ sinh đẻ cho những phụ nữ có nguy cơ truyền GBS cho trẻ sơ sinh của họ.
Hiện nay, Bộ Y tế đã cho thực hiện việc cung cấp vitamin K cho trẻ ngay sau khi sinh nhằm bảo vệ trẻ khỏi nguy cơ xuất huyết não, màng não do thiếu vitamin K. Việc cung cấp vitamin K cho trẻ sơ sinh được thực hiện theo hai hình thức uống hoặc tiêm. Nguyên nhân gây xuất huyết ở trẻ sơ sinh Nguyên nhân chính gây ra hiện tượng xuất huyết ở trẻ là do thiếu vitamin K. Vitamin K đóng vai trò quan trọng trong việc giúp cơ thể bé khỏe mạnh và phát triển toàn diện. Một số loại vi khuẩn sống trong ruột và đại tràng hệ đường ruột cũng cung cấp một lượng vitamin này cho cơ thể trẻ. Vitamin K còn được tìm thấy nhiều trong các loại rau xanh. Có một số lý do giải thích tại sao trẻ sơ sinh lại dễ bị thiếu hụt vitamin K. Thứ nhất, chỉ có một lượng nhỏ vitamin K được truyền qua nhau thai trong thai kỳ. Thứ hai, sữa mẹ chỉ chứa một lượng nhỏ vitamin K. Bên cạnh đó, các lợi khuẩn trong hệ đường ruột lợi khuẩn Lactobacillus ở trẻ bú sữa mẹ cũng không thể tổng hợp được vitamin K. Các triệu chứng xuất huyết dễ nhận biết nhất Nếu con bạn bị xuất huyết, bé có khả năng phát triển không bình thường trước khi xuất hiện xuất huyết nghiêm trọng. Những triệu chứng này bao gồm Có dấu hiệu chảy máu không đáng kể Cân nặng thấp so với tuổi của bé Ít tăng cân. Xuất huyết ở trẻ sơ sinh có nguy cơ xảy ra ở một hoặc nhiều khu vực bao gồm Gốc rốn, khu vực ẩm ướt nơi dây rốn được cắt Màng nhầy ở mũi và miệng Dương vật nếu bé được cắt bao quy đầu Những nơi bị kim đâm khi tiêm chủng Hệ tiêu hóa Da. Nếu bé bị xuất huyết, đôi khi bạn sẽ thấy máu xuất hiện trong phân hay nước tiểu của bé. Ngoài ra, dấu hiệu xuất huyết còn biểu hiện qua các vết thâm tím hoặc khối u trên đầu. Nếu khối u ngày càng lớn, có khả năng đây là dấu hiệu của chứng u máu đầu. Tình trạng u máu lành tính có thể hết sau một thời gian. Tuy nhiên, các khối u máu cũng có thể là dấu hiệu của tình trạng xuất huyết nội sọ. Đây là tình trạng nguy hiểm đe dọa đến tính mạng. Do đó nếu có nghi ngờ, bạn hãy đưa trẻ đi khám ngay. Các yếu tố nguy cơ gây bệnh xuất huyết ở trẻ sơ sinh Các yếu nguy cơ gây bệnh xuất huyết ở trẻ sơ sinh tùy thuộc vào giai đoạn khởi phát bệnh 1. Giai đoạn khởi phát sớm Xuất huyết ở trẻ sơ sinh xảy ra trong vòng 24 giờ đầu tiên sau khi sinh được gọi là xuất huyết sơ sinh giai đoạn khởi phát sớm. Bé có nguy cơ phát bệnh nếu trong thai kỳ bạn có sử dụng một số loại thuốc nhất định trong khi mang thai. Các loại thuốc thường là Thuốc chống co giật gây trở ngại cho quá trình chuyển hóa vitamin K như phenytoin, phenobarbital, caramezepine, primidone Thuốc làm loãng máu như warfarin Coumadin, aspirin Thuốc kháng sinh hạn như cephalosporin Thuốc chống lao như rifampin, isoniazid. 2. Giai đoạn khởi phát cơ bản Xuất huyết ở trẻ sơ sinh xảy ra trong tuần đầu tiên sau khi sinh, thường là ở những trẻ chưa được bổ sung vitamin K dự phòng khi sinh bằng đường uống hoặc tiêm. Nếu bú mẹ hoàn toàn và không được bổ sung vitamin K, bé có nguy cơ mắc bệnh cao hơn các trẻ khác. 3. Giai đoạn khởi phát muộn Xuất huyết ở trẻ sơ sinh xảy ra ở trẻ từ 2 tuần đến 6 tháng tuổi được gọi là xuất huyết ở giai đoạn khởi phát muộn. Bệnh này thường xảy ra ở những trẻ không được tiêm vitamin K. Các yếu tố nguy cơ bao gồm Hàm lượng vitamin K trong sữa mẹ thấp Hẹp đường mật gây tắc mật Xơ nang Bệnh celiac Tiêu chảy mãn tính Viêm gan Thiếu A1-antitrypsin có thể gây các bệnh liên quan đến bệnh phổi và gan. Chẩn đoán và điều trị xuất huyết ở trẻ sơ sinh Nếu nghi ngờ trẻ bị xuất huyết, các bác sĩ sẽ cho thực hiện các xét nghiệm đông máu và cho bé bổ sung vitamin K1. Nếu điều này ngăn chặn được tình trạng xuất huyết, bác sĩ sẽ xác nhận nguyên nhân xuất huyết là do thiếu hụt vitamin K. Nếu con bạn được chẩn đoán chảy máu do thiếu vitamin K, bác sĩ sẽ đưa ra phác đồ điều trị cụ thể, bao gồm truyền máu nếu xuất huyết xảy ra ở mức độ rất nặng. Việc điều trị sẽ đạt kết quả tốt cho trẻ sơ sinh có các triệu chứng khởi phát sớm hoặc các triệu chứng khởi phát cơ bản. Tuy nhiên, tình trạng chảy máu do thiếu vitamin K nếu được phát hiện muộn sẽ trở nên nghiêm trọng hơn và dẫn đến nguy cơ chảy máu trong sọ cao, gây ra tổn thương não hoặc tử vong. Nếu cho bé bú sữa mẹ, bạn nên tham khảo bác sĩ về các bước giúp bé hấp thu đủ vitamin K. Ngoài ra, việc bổ sung vitamin K cho trẻ sơ sinh cũng là một biện pháp dự phòng giúp bé khỏi tình trạng xuất huyết do thiếu hụt vitamin K.
Người bệnh xuất huyết não khi không được phát hiện và điều trị kịp thời có thể gây ra những thương tổn vĩnh viễn, thậm chí ảnh hưởng đến tính mạng. Đây là một trong những nguyên nhân gây đột quỵ. Bài viết sau đây sẽ giúp bạn tìm hiểu thêm những thông tin cơ bản xoay quanh tình trạng này. Tìm hiểu chung Chảy máu não là gì? Nhiều người hiểu xuất huyết não tức là bị chảy máu ở trong não máu thoát khỏi mạch máu và lan ra các vùng lân cận. Tuy nhiên, trong y khoa, xuất huyết não đề cập đến tình trạng chảy máu nội sọ, tức là sự chảy máu xảy ra bên trong các nhu mô não. Để hiểu chi tiết hơn, trước tiên bạn nên biết sơ bộ về các trường hợp chảy máu trong não. Tình trạng chảy máu có thể xảy ra ở nhiều vị trí trong não bộ như sau Xuất huyết màng não xuất huyết dưới nhện Ở trong xương sọ, có 3 lớp màng để bao bọc và bảo vệ các nhu mô não, theo thứ tự từ ngoài vào trong là màng cứng, màng nhện và màng mềm. Tình trạng xuất huyết chảy máu có thể xảy ra ở bất cứ nơi nào giữa các màng não Xuất huyết ngoài màng cứng chảy máu xảy ra giữa xương sọ và lớp màng cứng. Xuất huyết dưới màng cứng chảy máu xảy ra giữa màng cứng và màng nhện. Xuất huyết dưới màng nhện chảy máu xảy ra giữa màng nhện và màng mềm. Xuất huyết bên trong nhu mô não Dạng này phổ biến gấp hai lần xuất huyết màng não. Ở bên trong nhu mô não có thể xảy ra hai loại xuất huyết Xuất huyết trong nhu mô não tình trạng chảy máu xảy ra ở các thùy não, các nhân nền, thân não hay tiểu não. Tình trạng này mới thực sự được gọi là xuất huyết não. Xuất huyết não thất tình trạng chảy máu xảy ra trong các não thất – những khoang trong não có nhiệm vụ sản xuất, dẫn lưu dịch não tủy. Trong bài viết này chỉ đề cập đến thông tin về bệnh xuất huyết não xuất huyết trong nhu mô não. Khi có tình trạng xuất huyết xảy ra, những mô não được nuôi dưỡng bởi mạch máu này sẽ không nhận đủ máu giàu oxy cần thiết. Bên cạnh đó, máu tràn ra và tích tụ tại một vị trí trong não bộ cũng gây áp lực lên vùng não đó và không cho oxy đến. Nếu lưu lượng máu bị gián đoạn, các tế bào ở vùng đó bị tổn thương, và chức năng liên quan sẽ bị rối loạn. Tình trạng thiếu oxy diễn ra trong hơn 3–4 phút sẽ làm cho các tế bào não chết vĩnh viễn, không thể phục hồi được. Triệu chứng Dấu hiệu và triệu chứng xuất huyết não Dấu hiệu xuất huyết não là gì? Tùy vào vị trí bị xuất huyết trên não bộ mà người bệnh có các triệu chứng xuất huyết não tương ứng. Thông thường, các biểu hiện hay gặp là Đột ngột cảm thấy tê bì cơ mặt, cánh tay hay chân, đặc biệt là chỉ xảy ra ở một bên cơ thể Đột ngột liệt nửa người hoặc méo miệng Đau đầu Buồn nôn và nôn mửa Lú lẫn, không tỉnh táo Chóng mặt, choáng váng Co giật Khó nuốt Mất thị lực hoặc nhìn mờ Mất khả năng thăng bằng và phối hợp vận động Gáy cứng, nhạy cảm với ánh sáng Nói khó hoặc phát âm không rõ ràng Khó đọc, viết hay hiểu những gì người khác nói Mất ý thức hoặc hôn mê Khó thở và nhịp tim bất thường thường thấy ở những người bị xuất huyết ở thân não. Xuất huyết não nhẹ hay nặng? Những trường hợp xuất huyết não nhẹ thường chỉ biểu hiện những triệu chứng như giảm khả năng giao tiếp, không tỉnh táo, rối loạn ý thức và lú lẫn. Những dấu hiệu như co cứng toàn thân, co giật, nôn mửa, sốt thậm chí là hôn mê sâu được xếp vào nhóm bệnh xuất huyết não nặng. Khi bạn nhận thấy người thân có bất kỳ triệu chứng kỳ lạ nào nghi ngờ là dấu hiệu xuất huyết não, hãy gọi điện thoại ngay đến số 115 hoặc đưa họ đến bệnh viện gần nhất. Đây là một tình trạng y tế khẩn cấp, đòi hỏi được can thiệp điều trị ngay lập tức. Dù không thường gặp bằng đột quỵ do thiếu máu não nhưng đột quỵ do xuất huyết gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng hơn. Nguyên nhân Nguyên nhân xuất huyết não là gì? Xuất huyết não có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân, như Chấn thương đầu, có thể do té ngã, tai nạn giao thông, tai nạn thể thao hoặc chịu tác động lực vào đầu Tăng huyết áp vì có khả năng làm tổn thương thành mạch máu hay khiến mạch máu bị rò rỉ hoặc vỡ, đây là nguyên nhân gây xuất huyết não không do chấn thương thường gặp nhất. Vỡ túi phình mạch máu não vị trí thành mạch bị yếu và phình ra thành một túi nhỏ chứa đầy máu Các mảng amyloid tích tụ trong các thành động mạch não thoái hóa mạch máu não dạng bột Dị dạng động tĩnh mạch não có những đoạn nối trực tiếp bất thường giữa các động mạch và tĩnh mạch ở não U não Huyết khối các xoang tĩnh mạch não Rối loạn quá trình đông máu hoặc điều trị bằng liệu pháp chống đông máu uống thuốc chống đông máu Có khối u đè lên các mô não gây chảy máu trong não Hút thuốc, nghiện rượu nặng hoặc sử dụng các chất kích thích khác như cocain khiến cho thành mạch máu yếu đi Các vấn đề liên quan đến mang thai và sinh nở, bao gồm sản giật, bệnh mạch máu sau sinh hoặc xuất huyết não thất ở trẻ sơ sinh Các vấn đề liên quan đến sự hình thành collagen bất thường bên trong thành mạch máu có thể làm cho thành mạch yếu đi và dễ vỡ. Chẩn đoán và điều trị Những thông tin được cung cấp không thể thay thế cho lời khuyên của các chuyên viên y tế. Hãy luôn tham khảo ý kiến bác sĩ. Phương pháp chẩn đoán xuất huyết não là gì? Ban đầu, bác sĩ sẽ đánh giá các triệu chứng mà bạn đang gặp phải để xác định sơ bộ tình hình. Tuy nhiên, một số người bệnh xuất huyết não nhưng không biểu hiện bất kỳ triệu chứng lâm sàng nào khiến cho việc chẩn đoán gặp khó khăn. Để xác định được vị trí chảy máu trong não, bác sĩ cần thực hiện một số xét nghiệm, chẳng hạn như Chụp CT hoặc MRI Chọc dò tủy sống Chụp mạch máu não để tìm kiếm các mạch máu phình vỡ hoặc xơ vữa, viêm động mạch, khối u, rách nội mạc động mạch, cục máu đông Ngoài ra, một số xét nghiệm bổ sung khác có thể được thực hiện để chẩn đoán xuất huyết não, bao gồm Điện não đồ, chụp X-quang ngực hay chọc dò tủy sống Xét nghiệm nước tiểu Xét nghiệm công thức máu toàn phần Điều trị bệnh xuất huyết não Bất kỳ loại xuất huyết nào xảy ra trong hộp sọ hay não bộ đều là tình trạng cần được cấp cứu. Nếu bạn hoặc người thân bị chấn thương đầu hoặc có các dấu hiệu và triệu chứng nghi ngờ là xuất huyết não, hãy đến ngay bệnh viện gần nhất hoặc gọi đến 115. Các nhân viên y tế sẽ chuyển bạn đến khu vực cấp cứu và xác định nguyên nhân gây chảy máu rồi tiến hành điều trị. Nếu bệnh nhân đã bị đột quỵ cũng phải làm bước xác định nguyên nhân, xem do xuất huyết hay do cục máu đông để đưa ra phương án phù hợp. Điều trị y khoa kịp thời sẽ hạn chế tổn thương cho các tế bào não, tăng khả năng phục hồi sau xuất huyết. Đôi khi, bác sĩ sẽ đề nghị làm phẫu thuật nếu Máu tụ nhiều bên trong não cần phải được dẫn lưu ra ngoài ngay lập tức để giảm bớt áp lực nội sọ. Phình động mạch não có thể chưa vỡ nhưng cần được can thiệp, gia cố lại thành mạch để ngăn ngừa chảy máu trong tương lai Có dị dạng động tĩnh mạch cần được loại bỏ. Không phải trường hợp nào người bệnh xuất huyết não cũng cần được phẫu thuật. Bác sĩ sẽ xem xét kích thước, nguyên nhân, vị trí xuất huyết, cũng như vài yếu tố khác trước khi đưa ra lựa chọn điều trị phù hợp. Trong quá trình điều trị, bác sĩ có thể Sử dụng thuốc hạ áp để kiểm soát huyết áp Dùng thuốc trị động kinh để kiểm soát cơn co giật Dùng một số loại thuốc khác để kiểm soát những triệu chứng khác, như thuốc giảm đau giúp giảm bớt đau đầu, thuốc làm mềm phân để tránh bị táo bón Truyền chất dinh dưỡng và bù nước qua tĩnh mạch khi cần thiết, có khi sử dụng ống nuôi thông đến dạ dày nếu bệnh nhân gặp khó khăn khi nuốt Quá trình hồi phục ở người bệnh xuất huyết não Khi được điều trị sớm và đúng cách, hầu hết người bệnh đều phục hồi tốt sau khi bị xuất huyết não. Việc phục hồi chức năng não bộ giúp người bệnh trở lại với cuộc sống bình thường. Các phương pháp giúp hỗ trợ quá trình này gồm Vật lý trị liệu Trị liệu ngôn ngữ Thay đổi lối sống để hạn chế nguy cơ bị xuất huyết trong tương lai. Bạn có thể xem thêm Lập kế hoạch chăm sóc bệnh nhân xuất huyết não khi về nhà Phòng ngừa Phòng ngừa xuất huyết não Bạn có thể giảm bớt nguy cơ bị xuất huyết não bằng cách Kiểm soát huyết áp luôn ổn định Giảm nồng độ cholesterol trong máu Giảm cân nếu đang thừa cân, béo phì Hạn chế sử dụng rượu, bia, thuốc lá Xây dựng chế độ ăn uống lành mạnh Tập luyện thể dục thường xuyên, đều đặn Kiểm soát tốt lượng đường trong máu nếu mắc bệnh đái tháo đường Mang đồ bảo hộ nếu tham gia vào các hoạt động thể chất có nguy cơ gây chấn thương, tránh để chấn thương đến vùng đầu Thay đổi lối sống lành mạnh hơn đế giảm thiểu tai biến mạch máu não Những người từng bị xuất huyết não hay đột quỵ sẽ tăng thêm 25% khả năng bị lại tình trạng đó trong tương lai. Do đó, bạn cần chú ý chăm sóc sức khỏe thật tốt và thực hiện các biện pháp bảo vệ não bộ.
bệnh xuất huyết não ở trẻ sơ sinh